Add parallel Print Page Options

Lời từ giã của Đa-vít

23 Sau đây là những lời từ giã của Đa-vít.

Đây là tuyên ngôn của Đa-vít,
    con trai Gie-xê.
    Người được Đấng Tối Cao nâng lên bậc vĩ đại lên tiếng.
Người là vua được Thượng Đế của Gia-cốp chỉ định;
    người là ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en [a]:
“Thần linh CHÚA phán qua ta,
    đặt lời Ngài trên lưỡi ta.
Thượng Đế của Ít-ra-en phán;
    Khối Đá của Ít-ra-en bảo ta:
Ai cai trị công minh trên dân ta,
    ai cai trị trong sự kính sợ Thượng Đế,
giống như ánh sáng bình minh,
    như buổi sáng trời trong, quang đãng.
    Người như tia sáng mặt trời sau cơn mưa,
    khiến cỏ non mọc lên từ đất.

Thượng Đế chăm nom gia đình ta như thế nầy.
    Ngài lập giao ước đời đời với ta, giao ước phải lẽ và vững chắc mọi mặt. [b]
    Ngài sẽ hoàn tất sự cứu rỗi cho ta, thỏa mãn mọi ước vọng ta.

Nhưng những kẻ ác sẽ bị ném đi
    như gai gốc
    không ai dám nắm trong tay.
Không ai đám đụng đến
    nếu không dùng kềm sắt hay kẹp gỗ.
    Chúng sẽ bị ném vào lửa và cháy phừng trong đó.”

Ba chiến sĩ anh dũng

Sau đây là tên của những chiến sĩ của Đa-vít:

Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít [c] là trưởng toán đặc biệt của vua [d]. Trong một cuộc chạm trán anh ta giết tám trăm người. [e]

Kế đến là Ê-lê-a-xa, con Đô-đai [f], người A-hô-hít. Ê-lê-a-xa là một trong ba chiến sĩ đi với Đa-vít khi ông thách thức người Phi-li-tin. Người Phi-li-tin dàn trận ra còn quân Ít-ra-en rút lui. 10 Nhưng Ê-lê-a-xa ở lại chiến đấu chống dân Phi-li-tin cho đến khi tay rã rời dính chặt vào gươm. Trong ngày đó CHÚA ban chiến thắng lớn cho dân Ít-ra-en. Quân sĩ quay lại sau khi Ê-lê-a-xa đã thắng để cướp lấy vũ khí và áo giáp quân thù.

11 Kế đến là Sam-ma, con A-ghi, người Ha-ra-rít. Quân Phi-li-tin đến đánh nhau trong vườn rau [g]. Quân Ít-ra-en chạy trốn khỏi người Phi-li-tin, 12 Nhưng Sam-ma đứng giữa ruộng đánh nhau dành miếng ruộng đó và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban đắc thắng lớn.

13 Có lần, ba trong số ba mươi chiến sĩ cận vệ [h] Đa-vít đi xuống gặp ông ở hang A-đu-lam nhằm lúc mùa gặt. Người Phi-li-tin đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im [i]. 14 Lúc đó Đa-vít đang ở trong mật khu, và một số người Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem.

15 Đa-vít rất muốn uống nước. Ông nói, “Ôi, ước gì có ai lấy nước cho ta nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba chiến sĩ [j] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA 17 và nói rằng, “Nguyện CHÚA chớ để tôi uống nước nầy! Như thế chẳng khác nào uống máu của những người vì đi lấy nước mà liều chết!” Đa-vít không chịu uống nước đó. Đó là những hành vi dũng cảm mà ba chiến sĩ đó làm.

Các chiến sĩ anh dũng khác

18 A-bi-sai, em Giô-áp, con Xê-ru-gia chỉ huy đám cận vệ. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm lính. Ông nổi danh như ba người kia 19 nhưng được tôn trọng hơn họ. Ông làm chỉ huy họ nhưng không thuộc trong đám họ.

20 Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa từ Cáp-xi-ên là một chiến sĩ gan dạ [k] đã thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số những lính thiện chiến nhất của Mô-áp. Ông cũng đi xuống hố và giết một con sư tử trong lúc tuyết đang rơi. 21 Bê-na-gia cũng giết một người Ai-cập đang cầm cây giáo trong tay. Bê-na-gia chỉ có một cây dùi cui nhưng ông giựt cây giáo khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 22 Đó là những điều Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa làm. Ông cũng nổi danh như ba người kia. 23 Ông nhận nhiều vinh dự hơn ba mươi người kia nhưng ông không thuộc vào nhóm Ba Người thân cận. Đa-vít cử ông làm chỉ huy toán hộ vệ mình.

Ba mươi chiến sĩ dũng cảm

24 Các người sau đây thuộc vào nhóm Ba Mươi người: A-sa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con Đô-đô ở Bết-lê-hem; 25 Sam-ma người Ha-rô-đít; Ê-li-ca người Ha-rô-đít; 26 Hê-lê người Ban-thít; Y-ra, con Ích-kê miền Tê-cô-a; 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt; Mê-bun-nai người Hu-sa-thít; 28 Xanh-môn, người A-lô-hít; Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; 29 Hê-lết con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; Y-tai con Ri-bai miền Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; 30 Bê-na-gia người Bi-ra-thô-nít; Hích-đai từ vùng hố của Ga-ách; 31 A-bi Anh-bôn người Ác-ba-thít; Ách-ma-vết người Ba-hu-mít; 32 Ê-li-a-ba người Sanh-bô-nít; các con trai của Gia-sen; Giô-na-than 33 con trai của Sam-ma người Ha-ra-rít; A-hi-am con Sa-ra người Ha-ra-rít; 34 Ê-li-phê-lết con A-hát-bai, người Ma-a-ca-thít; Ê-li-am con A-hi-tô-phên, người Ghi-lôn; 35 Hết-rô người Cạt-mên; Ba-a-rai người Ạc-bít; 36 Y-ganh con Na-than ở Xô-ba; con của Hát-ri; 37 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-e-rô-thít, vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia; 38 Y-ra người Ít-rít; Ga-rép người Ít-rít, 39 và U-ri người Hê-tít. Tất cả là ba mươi bảy người.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 23:1 ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en Hay “bài ca hay nhất của Ít-ra-en.”
  2. II Sa-mu-ên 23:5 Ngài lập … mọi mặt Hay “Có phải Ngài làm cho gia đình tôi vững chắc không?”
  3. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít Hay “Gia-hô-bim người Hạc-mô-nít.” Xem thêm I Sử 11:11.
  4. II Sa-mu-ên 23:8 toán đặc biệt của vua Một toán binh sĩ đặc biệt gồm ba người để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt mà vua giao phó.
  5. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép … tám trăm người Bản Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy không rõ nghĩa. Câu nầy được dịch theo I Sử 11:11 và bản cổ Hi-lạp.
  6. II Sa-mu-ên 23:9 Ê-lê-a-xa, con Đô-đai Hay “Ê-lê-a-xa, bà con của anh ta.”
  7. II Sa-mu-ên 23:11 vườn rau Hay “vườn đậu.”
  8. II Sa-mu-ên 23:13 ba mươi chiến sĩ cận vệ Hay “lực lượng đặc biệt của vua.” Đây là những người thuộc toán chiến sĩ anh dũng của Đa-vít. Xem câu 23, 24.
  9. II Sa-mu-ên 23:13 ba trong số … Rê-pha-im Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy. Xem I Sử 11:15.
  10. II Sa-mu-ên 23:16 ba chiến sĩ Đây là ba chiến sĩ gan dạ nhất của Đa-vít. Xem câu 18, 22.
  11. II Sa-mu-ên 23:20 chiến sĩ gan dạ Nghĩa là ông thuộc vào hàng chiến sĩ sẵn sàng bảo vệ dân tộc trong chiến tranh.

Bài Ca Cuối Cùng của Ða-vít

23 Ðây là những lời cuối cùng của Ða-vít:

“Ða-vít con của Giê-se nói,
Người đã được cất nhắc lên cao nói,
Tức người đã được Ðức Chúa Trời của Gia-cốp xức dầu,
Người đã viết ra những bản thánh thi được yêu chuộng trong I-sơ-ra-ên:
Thần của Chúa phán với tôi,
Lời của Ngài ở trên lưỡi tôi.
Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán,
Vầng Ðá của I-sơ-ra-ên nói với tôi,
‘Người nào trị vì trên người ta cách công chính,
Tức người trị vì với lòng kính sợ Ðức Chúa Trời,
Người ấy sẽ rực rỡ như ánh bình minh khi mặt trời ló dạng,
Như buổi sáng nắng đẹp không một gợn mây;
Như cỏ non mọc lên từ lòng đất,
Trong một ngày nắng ráo sau cơn mưa.’

Gia đình tôi dù không được ngay lành trước mặt Ðức Chúa Trời,
Dù vậy Ngài đã lập với tôi một giao ước đời đời;
Mọi sự đã được Ngài an bài và làm cho ổn định.
Ðây là tất cả những gì tôi mong được hưởng trong ơn cứu rỗi,
Và là tất cả những gì tôi hằng ao ước;
Ngài sẽ chẳng làm cho điều ấy cứ tăng lên sao?
Nhưng quân phản bội sẽ như những nhánh gai bị vứt bỏ,
Vì không ai có thể dùng tay trần nắm chúng được;
Nhưng ai muốn đụng đến chúng,
Người ấy phải có dụng cụ bằng sắt hoặc cầm nơi cán giáo mới được an toàn.
Bọn ấy sẽ hoàn toàn bị thiêu rụi trong lửa ngay tại chỗ của chúng.”

Những Dũng Sĩ của Ða-vít

(1Sử 11:10-41)

Ba Dũng Sĩ Hàng Ðầu

Ðây là tên các dũng sĩ của Ða-vít: Giô-sép Ba-sê-bết người Ta-kê-mô-ni. Ông chỉ huy Ba Dũng Sĩ. Chính ông là người đã dùng cây giáo đánh hạ tám trăm quân thù trong một trận đánh.

Sau ông có Ê-lê-a-xa con trai của Ðô-đô[a] người A-hô-hi. Ông là một trong ba dũng sĩ. Có lần ông đi với Ða-vít đến nơi quân Phi-li-tin tụ lại dàn trận để giao tranh. Quân I-sơ-ra-ên đã rút lui, 10 nhưng ông cứ ở lại mà đánh quân Phi-li-tin cho đến khi cánh tay ông đuối sức, và bàn tay ông dính chặt vào cán gươm. Ngày hôm đó Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn. Quân I-sơ-ra-ên quay trở lại, nhưng chỉ để thu lượm chiến lợi phẩm.

11 Kế sau ông là Sam-ma con của A-ghi, người Ha-ra-ri. Dân Phi-li-tin tập họp với nhau thành một đạo quân trong một cánh đồng trồng đậu. Quân I-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Phi-li-tin, 12 nhưng một mình ông cứ đứng trụ ngay giữa cánh đồng mà chống cự và đánh giết quân Phi-li-tin. Nhờ thế Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn.

Ba Dũng Sĩ Ðặc Biệt

13 Vào đầu một mùa gặt kia, ba người trong Nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ đi xuống gặp Ða-vít ở hang A-đu-lam, giữa lúc quân Phi-li-tin đang hạ trại trong thung lũng ở Rê-pha-im. 14 Ða-vít đang ở trong chiến lũy, còn quân Phi-li-tin thì đóng đồn ngay tại Bết-lê-hem. 15 Bấy giờ Ða-vít ước ao và nói, “Ôi, ước gì có ai cho tôi uống nước giếng ở cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Ba dũng sĩ ấy bèn xông qua trại của quân Phi-li-tin, đến giếng nơi cổng thành Bết-lê-hem, lấy nước, và đem về cho Ða-vít. Tuy nhiên Ða-vít không uống nước ấy, nhưng đổ nó ra, dâng lên Chúa, 17 và nói, “Lạy Chúa, xin đừng để con làm điều nầy nữa. Ðây há chẳng phải là máu của những người đã liều mạng đi lấy nó về sao?” Vì thế Ða-vít không uống nước ấy. Ðó là việc ba dũng sĩ ấy đã làm.

Các Dũng Sĩ Khác

18 A-bi-sai em Giô-áp, con của bà Xê-ru-gia, chỉ huy Nhóm Ba Mươi[b] Dũng Sĩ. Ông lấy cây giáo của ông đánh ba trăm quân thù và giết chết chúng. Vì thế danh ông được liệt vào hàng của Ba Mươi[c] Dũng Sĩ hàng đầu. 19 Ông há không đáng được tôn trọng nhất trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ sao? Vì thế ông đã được đặt làm người chỉ huy của họ. Tuy nhiên ông không được vào nhóm ba dũng sĩ kia.

20 Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa là một người dũng mãnh quê ở Cáp-xê-ên. Ông được nổi tiếng vì có nhiều thành tích. Ông đã đánh hạ hai tay anh hùng dữ tợn như sư tử của dân Mô-áp. Ngoài ra một ngày tuyết rơi nọ, ông đi xuống hố lấy nước, không ngờ tại đó đã có một con sư tử. Nó nhảy đến vồ ông, nhưng ông đã đánh nó chết. 21 Ông cũng đánh hạ một tên Ai-cập có tướng mạo to lớn dị thường. Tên Ai-cập ấy cầm cây giáo trong tay, còn ông chỉ có một cây gậy. Ông giật lấy cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, rồi dùng cây giáo ấy giết hắn. 22 Ðó là các thành tích mà Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đã làm, nên danh ông không kém gì ba dũng sĩ kia. 23 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ, ông được tôn trọng hơn nhiều người, nhưng không bằng ba dũng sĩ hàng đầu. Ða-vít đặt ông chỉ huy các cận vệ của mình.

24 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ còn có A-sa-ên em Giô-áp, Ên-ha-nan con của Ðô-đô người Bết-lê-hem, 25 Sam-ma người Ha-rốt, Ê-li-ca người Ha-rốt, 26 Hê-lê người Pan-ti, I-ra con của Ích-kết người Tê-cô-a, 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt, Mê-bun-nai người Hu-sa-thi, 28 Xanh-môn người A-hô-hi, Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, 29 Hê-lét con của Ba-a-na người Nê-tô-pha-thi, Ít-tai con của Ri-bai người Ghi-bê-a, dòng dõi Bên-gia-min, 30 Bê-na-gia người Pi-ra-thô-ni, Hi-đai quê ở các suối vùng Ga-ách, 31 A-bi Anh-bôn người Ạc-ba-thi, A-ma-vét người Ba-hu-rim,[d] 32 Ên-gia-ba người Sa-anh-bô-ni, các con trai của Gia-sên, Giô-na-than con của 33 Sam-ma người Ha-ra-ri, A-hi-am con của Sa-ra người Ha-ra-ri, 34 Ê-li-phê-lét con của A-hát-bai dòng dõi của Ma-a-ca-thi, Ê-li-am con của A-hi-thô-phên người Ghi-lô-ni, 35 Hê-xơ-rô người Cạt-mên-li, Pa-a-rai người Ạc-bi, 36 I-ganh con của Na-than người Xô-ba, Ba-ni người Gát, 37 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-ê-rô-thi – ông là người vác binh khí cho Giô-áp con trai bà Xê-ru-gia – 38 I-ra người I-thơ-ri, Ga-rếp người I-thơ-ri, 39 và U-ri-a người Hít-ti. Tất cả là ba mươi bảy người.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 23:9 1 Sử 27:4 viết là “Ðô-đai”
  2. II Sa-mu-ên 23:18 nt: “Ba”, nhưng hai bản Hebrew khác và bản Syriac ghi “Ba Mươi”
  3. II Sa-mu-ên 23:18 Có bản ghi, “Ba”
  4. II Sa-mu-ên 23:31 Có bản chép “Ba-hu-mít”

Những Lời Cuối Cùng Của Vua Đa-vít

23 Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít:

Lời của Đa-vít, con ông Y-sai,
    Lời của người được nhấc lên cao,[a]
Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong;
    Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng:
Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy,
    Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta.
Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy,
    Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta:
“Người nào cai trị nhân loại cách công minh,
    Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời,
Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọc
    Vào một buổi sáng trời quang mây tạnh,
Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa,
    Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.”
Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy!
    Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời,
    Có quy định đầy đủ, không đổi dời.
Mọi thành công, mọi điều ta ao ước,
    Ngài sẽ cho nẩy mầm.
Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc.
    Không ai dám nắm chúng trong tay.
Người nào đụng đến chúng,
    Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo.
    Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ.

Ba Dũng Sĩ Của Vua Đa-vít

Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết,[b] người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ.[c] Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc.

Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. 10 Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

11 Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. 12 Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

Thành Tích Của Ba Dũng Sĩ Trong Nhóm Ba Mươi

13 Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. 14 Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. 15 Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. 17 Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ.

A-bi-sai Và Bê-na-gia

18 Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ.[d] Ông vung gươm, chém giết 300 người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 19 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi[e] và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba.

20 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. 21 Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. 22 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 23 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh.

Nhóm Ba Mươi

24 Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; 25 ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; 26 ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; 27 ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; 28 ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; 29 ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; 30 ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; 31 ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; 32 ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; 33 ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; 34 ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; 35 ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; 36 ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; 37 ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; 38 ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; 39 ông U-ri người Hết.

Tổng cộng là 37 dũng sĩ.

Footnotes

  1. 23:1 Qumran, LXX: được Đức Chúa Trời dấy lên
  2. 23:8 LXX: Ích-bô-sết, Ích-ba-anh
  3. 23:8 Ctd: Bộ Ba
  4. 23:18 Syr: ba mươi
  5. 23:19 Syr; c.23; nt: Bộ Ba